15/07/2019 14:41 GMT+7

Rối loạn ám ảnh cưỡng bức

Nguồn: Cổng thông tin Y học Cộng đồng
Nguồn: Cổng thông tin Y học Cộng đồng

Những người bị rối loạn ám ảnh cưỡng bức cảm thấy cần kiểm tra mọi việc lặp đi lặp lại, hoặc có những ý nghĩ hay thực hiện những hành vi lặp đi lặp lại.

Rối loạn ám ảnh cưỡng bức - Ảnh 1.

Ảnh minh họa. Nguồn: iradaclinic.com

Thỉnh thoảng chúng ta có thói quen kiểm tra tỉ mỉ mọi việc. Ví dụ, bạn có thể kiểm tra lại để đảm bảo mình đã tắt bếp điện hay bàn ủi trước khi ra khỏi nhà. Nhưng những người bị rối loạn ám ảnh cưỡng bức (Obsessive Compulsive Disorder - OCD) cảm thấy cần kiểm tra mọi việc lặp đi lặp lại, hoặc có những ý nghĩ hay thực hiện những quy trình và hành vi lặp đi lặp lại. Những suy nghĩ và hành vi do OCD gây ra có thể gây khó chịu và trở ngại cho cuộc sống thường nhật.

Những ý nghĩ khó chịu thường xuyên đó được gọi là ám ảnh. Để kiểm soát chúng, người bệnh thường cảm thấy có sự thôi thúc mạnh mẽ phải lặp lại những hành vi nào đó gọi là xung động. Người bị OCD không thể kiểm soát những ám ảnh và hành vi xung động này. Phần lớn thời gian bệnh nhân bị những hành vi này chi phối.

Ví dụ, nếu có người bị ám ảnh với chất bẩn và vi trùng, họ có thể hình thành xung động rửa tay nhiều lần. Nếu họ có ám ảnh sợ có người đột nhập, họ có thể khóa cửa đi rồi khóa lại nhiều lần trước khi đi ngủ. Việc sợ bị xấu hổ nơi công cộng có thể khiến bệnh nhân OCD bị xung động chải tóc nhiều lần trước gương- thỉnh thoảng họ bị "kẹt" trước gương và không thể rời ra được. Việc lặp đi lặp lại những hành vi này rất không thoải mái. Có chăng, nó chỉ làm khuây khỏa tạm thời khỏi bị lo âu do ý nghĩ ám ảnh gây ra.

Những hành vi thường gặp khác có thể là cần phải kiểm tra đi kiểm tra lại mọi việc, chạm vào đồ vật (đặc biệt là theo một trình tự nhất định), hay đếm đồ vật. Một vài ám ảnh phổ biến như thường xuyên có ý tưởng bạo lực và làm hại những người thân, suy nghĩ dai dẳng về những hành vi tình dục mà mình không thích, hay có những ý nghĩ không được phép theo niềm tin tôn giáo của mình. Người bị OCD cũng có thể bận tâm nhiều về trình tự và sự đối xứng, khó mà vứt bỏ đi bất cứ thứ gì (nên họ góp nhặt lại), hoặc tích trữ những vật dụng không cần thiết.

Những người bình thường cũng có hành vi, chẳng hạn như kiểm tra bếp điện vài lần trước khi ra khỏi nhà. Khác biệt ở đây là người bị OCD thực hiện hành vi này ngay cả khi nó gây trở ngại cuộc sống thường nhật và họ thấy khó chịu về những hành động lặp lại này. Mặc dù hầu hết người trưởng thành bị OCD nhận thức được việc họ đang làm là vô lý, những người khác và trẻ em có thể không nhận thức được hành vi của mình là không bình thường.

Nguyên nhân rối loạn ám ảnh cưỡng bức

OCD có thể do di truyền, nhưng không ai biết chắc chắn tại sao có người bị rối loạn này còn những người khác thì không. Những nhà nghiên cứu đã phát hiện một vài khu vực trong não có liên quan đến sợ hãi và lo âu. Qua nghiên cứu về sợ hãi và lo âu trong não bộ, các nhà khoa học có thể tìm ra những phương pháp chữa trị tốt hơn. Các nhà nghiên cứu cũng đang tìm kiếm những mối liên hệ giữa căng thẳng và các yếu tố môi trường có thể có vai trò trong OCD

Dấu hiệu và triệu chứng rối loạn ám ảnh cưỡng bức

Người bị OCD thường:

- Có những ý nghĩ, hình dung lặp đi lặp lại về nhiều thứ khác nhau, chẳng hạn như sợ vi trùng, sợ bẩn, hay bị đột nhập; những hành động bạo lực; làm hại người thân, những hành vi tình dục, những mâu thuẫn với niềm tin tôn giáo; hoặc quá ngăn nắp gọn gàng.

- Lặp đi lặp lại một số hành vi như rửa tay, khóa và mở khóa cửa, đếm, giữ những đồ đạc không cần dùng đến, hay thực hiện đi lại các bước giống nhau.

- Không thể kiểm soát những hành vi và ý nghĩ không mong muốn.

- Không cảm thấy thoải mái khi thực hiện những hành vi này, nhưng cảm thấy khuây khỏa nhất thời khỏi bị lo âu do ý nghĩ đó gây ra.

- Mất ít nhất 1 giờ mỗi ngày cho ý nghĩ và hành vi đó, gây ra khó chịu, cản trở cuộc sống hàng ngày.

Những ai có nguy cơ bị rối loạn ám ảnh cưỡng bức cao?

Với nhiều người, OCD thường khởi phát từ thời thơ ấu hay thiếu niên. Phần lớn người rối loạn được chẩn đoán trước tuổi 19. Những triệu chứng của OCD thường đến rồi đi, khi thì nặng khi thì nhẹ khác nhau.

OCD ảnh hưởng đến khoảng 2,2 triệu người Mỹ trưởng thành. Rối loạn ảnh hưởng đến nam giới và nữ giới gần như tương đương về số lượng. Rối loạn thường bắt đầu từ thời thơ ấu, hay tuổi thanh thiếu niên. Một phần ba người mắc OCD trưởng thành có triệu chứng tiến triển từ khi còn là trẻ em. Nghiên cứu cũng chỉ ra OCD có thể di truyền trong gia đình.

Chẩn đoán rối loạn ám ảnh cưỡng bức

Tiến triển của bệnh rất thay đổi. Triệu chứng có thể đến rồi đi, nhẹ đi qua thời gian, hoặc nặng lên. Nếu OCD trở nên trầm trọng, có thể khiến bệnh nhân không thể đi làm hay không hoàn thành các nghĩa vụ thường ngày trong gia đình. Người bị OCD có thể tự đối phó bằng cách tránh những tình huống có thể kích hoạt ám ảnh, có khi họ có thể lạm dụng rượu hay ma tuý để tự trấn an.

OCD có thể đi kèm với các rối loạn ăn uống, các rối loạn lo âu khác, hoặc trầm cảm.

Đầu tiên, bạn cần nói chuyện với bác sĩ về các triệu chứng của bạn. Bác sĩ cần khám để chắc là các triệu chứng này không do các vấn đề thực thể khác gây ra. Bác sĩ có thể giới thiệu bạn đến gặp bác sĩ chuyên khoa tâm thần.

Điều trị rối loạn ám ảnh cưỡng bức

OCD thường được điều trị bằng trị liệu tâm lý, thuốc, hoặc cả hai.

Trị liệu tâm lý. Một dạng trị liệu tâm lý gọi là liệu pháp nhận thức hành vi đặc biệt hữu dụng trong điều trị OCD. Nó dạy bệnh nhân những cách suy nghĩ, hành động và phản ứng khác đi đối với những tình huống, để giúp họ bớt lo âu và sợ hãi mà không có những ý nghĩ ám ảnh hay hành động xung động. Một dạng trị liệu khác gọi là 'tập nhiễm và ngăn ngừa đáp trả' rất hiệu quả để làm giảm các hành vi xung động trong OCD.

Thuốc. Bác sĩ cũng có thể kê đơn thuốc để điều trị OCD. Các loại thuốc thường được kê đơn cho OCD là thuốc giải lo âu và chống trầm cảm. Các loại thuốc giải lo âu rất mạnh và có nhiều loại khác nhau. Có thuốc có hiệu quả ngay từ đầu, nhưng nói chung là không nên sử dụng kéo dài.

Thuốc chống trầm cảm thường dùng đề điều trị trầm cảm, tuy nhiên chúng cũng đặc biệt hữu ích với OCD, có thể hơn cả các loại thuốc giải lo âu. Thông thường mất khoảng 10 đến 12 tuần thì thuốc bắt đầu có hiệu quả. Một vài thuốc có thể gây ra các tác dụng phụ như nhức đầu, buồn nôn, hay khó ngủ. Những tác dụng phụ này thường không gây trở ngại lớn cho hầu hết mọi người, đặc biệt nếu bắt đầu với liều thấp và tăng chậm theo thời gian. Hãy trao đổi với bác sĩ về những tác dụng phụ mà bạn có thể gặp phải.

Điểm quan trọng cần biết là dù thuốc chống trầm cảm có thể an toàn và hiệu quả cho nhiều người, chúng vẫn có thể gây rủi ro cho người khác, đặc biệt là trẻ em, trẻ vị thành niên và thanh niên. Một "danh sách đen" - những cảnh báo nghiêm trọng nhất mà thuốc kê đơn có thể có - được dán lên nhãn các thuốc chống trầm cảm. Những nhãn thuốc này cảnh báo cho mọi người là thuốc chống trầm cảm có thể làm người sử dụng có ý tưởng tự sát hoặc có hành vi tự sát. Người sử dụng thuốc chống trầm cảm cần được theo dõi chặt chẽ, đặc biệt là khi họ mới sử dụng thuốc.

Có người mắc OCD đáp ứng tốt với liệu pháp nhận thức hành vi, đặc biệt là liệu pháp 'tập nhiễm và ngăn ngừa đáp trả'. Những người khác lại đáp ứng tốt với thuốc. Vẫn có người đáp ứng tốt nhất với phối hợp cả hai. Hãy nói chuyện với bác sĩ để biết điều trị nào là tốt nhất cho bạn.

OCD thường đáp ứng tốt với việc điều trị bằng một số loại thuốc và/hoặc trị liệu tâm lý dựa trên tiếp xúc/phơi nhiễm, trong đó bệnh nhân đối diện với những tình huống gây sợ hãi hay lo lắng và trở nên ít mẫn cảm với chúng hơn (giải mẫn cảm). Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia Hoa Kỳ (The National Institute of Mental Health - NIMH) đang hỗ trợ những nghiên cứu về các phương pháp điều trị mới cho những bệnh nhân OCD không đáp ứng tốt với các trị liệu thông thường. Những phương pháp này bao gồm những dạng điều trị kết hợp và bổ sung, cũng như những kỹ thuật hiện đại như kích thích não sâu.


Nguồn: Cổng thông tin Y học Cộng đồng
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên