23/09/2003 07:17 GMT+7

5.000 tỉ để cứu 40 nhà máy đường?

T.TU.
T.TU.

TT - Nếu hỗ trợ để giữ lại 20 nhà máy có khả năng tồn tại và phát triển thì trong ba năm tới, Nhà nước phải chi ra 1.100 tỉ đồng. Nếu cứu “cả gói”, Nhà nước phải chi ngay 5.000 tỉ đồng nhưng cũng không giải quyết được khó khăn.

5aRmpv3S.jpgPhóng to

Nhà máy đường Tuy Hòa đang thu mua mía

Đó là các con số được Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Sinh Hùng nêu ra trong tờ trình gửi Thủ tướng Chính phủ về phương án xử lý khó khăn cho các nhà máy đường.

Ai còn, ai mất?

Căn cứ vào tình hình tài chính đến năm 2002 của các nhà máy đường, Bộ Tài chính đã chia 40 nhà máy thành ba nhóm.

Trong đó nhóm 1 (có khả năng tồn tại, phát triển - cạnh tranh - hội nhập mà không cần đến các giải pháp hỗ trợ tài chính mạnh từ Nhà nước) chỉ có tám doanh nghiệp (DN); nhóm 2 (có khả năng tồn tại nhưng còn nhiều khó khăn, Chính phủ cần phải áp dụng các giải pháp hỗ trợ tài chính mạnh trong ba năm từ 2003-2005 để giúp DN khắc phục tồn tại và phát triển) có 14 DN; nhóm 3 (phải sắp xếp, áp dụng các biện pháp sáp nhập, giải thể, phá sản) có đến 20 DN.

Bộ NN&PTNT: “Cơ chế sinh lỗ” ở các nhà máy đường

Trong báo cáo mới đây, Bộ Nông nghiệp - phát triển nông thôn đã nhìn nhận có bốn nguyên nhân khách quan và năm nguyên nhân chủ quan đã đẩy chương trình mía đường với số vốn đầu tư lên đến 700 triệu USD (trên 10.000 tỉ đồng) vào chỗ khó khăn.

Trong đó Bộ NN - PTNT đặc biệt nhấn mạnh đến “cơ chế sinh lỗ” đó là vay quá lớn, gần như sử dụng toàn bộ vốn vay, lại là vốn vay chỉ có bảy năm. Thời gian khấu hao quá ngắn chỉ 7-12 năm đã làm tăng khống giá thành đường, nhất là khi tỉ lệ sử dụng công suất còn thấp.

Bộ NN-PTNT tính toán như sau: cơ cấu giá thành (chưa tính chi phí tài chính) của các nhà máy theo định mức là 2.850 đồng/kg đường. Giá bán trước thuế được bảo hộ là 4.100 đồng/kg. Với các thông số này, trường hợp nhà máy có công suất 1.000 tấn mía/ngày sẽ sản xuất được 15.000 tấn đường, bán thu được chênh lệch 18,75 tỉ đồng.

Thế nhưng nhà máy phải trả lãi vay 9 tỉ, khấu hao 12 tỉ, vì thế lỗ 2,25 tỉ. Trường hợp nhà máy công suất 1.500 tấn mía/ngày thì sản xuất được 22.500 tấn đường, bán thu chênh lệch được 28,125 tỉ nhưng chi trả lãi 13,5 tỉ, khấu hao 18 tỉ, sẽ lỗ 3,375 tỉ...

Theo số liệu của Bộ NN-PTNT, tính đến hết năm 2002 tình hình tài chính của các nhà máy đường như sau:

- Lỗ 2.753 tỉ đồng, trong đó nhà máy đường vốn trong nước lỗ 2.048 tỉ, nhà máy đường có vốn nước ngoài lỗ 704 tỉ.

- Nợ nần như sau: đến hết năm 2002 dư nợ của chương trình là 5.008 tỉ, trong đó nợ gốc 4.139 tỉ, lãi và phí bảo hành 869 tỉ. Trong tổng dư nợ thì nợ vay trong nước là 4.008 tỉ, vay nước ngoài 1.000 tỉ. Nợ quá hạn là 700 tỉ. Trong hai năm 2001, 2002, các nhà máy không trả được nợ vay nước ngoài do Ngân hàng Nông nghiệp - phát triển nông thôn bảo lãnh nên ngân hàng này đã phải trả nợ thay 485 tỉ đồng.

Tương tự cũng chưa có doanh nghiệp nào trả được nợ vay nước ngoài của ADB.

Nhóm 1 gồm các công ty mía đường Lam Sơn, La Ngà, KCP Phú Yên, Bourbon-Gia Lai, Tate and Lyle-Nghệ An, Nagarjuna-Long An, Bourbon-Tây Ninh, Việt Đài.

Tiêu chí phân loại nhóm 1 là nhà máy hoạt động trên 80% công suất thiết kế, không có nợ vay tồn đọng, giá thành sản xuất đường thấp, khoảng 4.000 đồng/kg, thấp hơn giá thành bình quân của ngành và tương đương giá thành các nước trong khu vực, cả điều kiện phát triển ổn định vùng nguyên liệu...

Nhóm 2 gồm các công ty An Khê, Cao Bằng, Tuy Hòa, Hòa Bình, Quảng Phú, Nông Cống, Ninh Hòa, Bình Định, Tây Ninh, Nhà máy đường thô Tây Ninh, Bình Dương, Trà Vinh, Sóc Trăng, Hiệp Hòa.

Tiêu chí phân loại nhóm 2 là có khả năng đạt 60 - 80% công suất thiết kế tối thiểu; tài chính có xu hướng ngày càng ổn định nhưng chưa có khả năng trả hết nợ vay đến hạn; giá thành sản xuất năm 2002 là 5.384 đồng/kg, thấp hơn mức bình quân toàn ngành nhưng vẫn cao hơn giá thành trong khu vực và khó cạnh tranh với đường nhập khẩu. Mục tiêu đến năm 2005 các nhà máy này phải có giá thành đường ở mức 4.000 đồng/kg.

Nhóm 3 gồm các công ty Quảng Ngãi - Nhà máy đường Phổ Phong, Kontum, Quảng Nam, Quảng Bình, Sơn Dương, 333, đường - rượu - bia Việt Trì, Khánh Hội, Thới Bình, Bến Tre, Kiên Giang, Sông Lam, Trị An, Sông Con, Khánh Hòa - nhà máy đường Cam Ranh, Sơn La, Tuyên Quang, Cần Thơ - nhà máy đường Vị Thanh và nhà máy đường Phụng Hiệp, Bình Thuận, Đắc Lắc, Biên Hòa.

Tiêu chí phân loại nhóm 3 là công suất huy động dưới mức bình quân toàn ngành, hoặc thiết bị cũ, thiếu đồng bộ, định mức tiêu hao nguyên liệu cao, thua lỗ liên tục từ khi hoạt động đến nay, dư nợ vay ngày càng tăng, giá thành đường cao mặc dù đã được Nhà nước hỗ trợ từ năm 1999 đến nay; không có khả năng phát triển vùng nguyên liệu...

Sẽ phải hỗ trợ vài trăm đến... 5.000 tỉ!

Theo phân tích của Bộ Tài chính, các DN thuộc nhóm 1 tuy có điều kiện phát triển nhưng trước mắt vẫn lỗ, Nhà nước phải hỗ trợ thông qua xử lý xóa khoản thuế giá trị gia tăng (GTGT) phải nộp phát sinh từ 2001-2003, ước khoảng 260 tỉ đồng.

Với nhóm 2, để thực hiện các giải pháp hỗ trợ, trong giai đoạn 2003-2005 Nhà nước phải chi ra khoảng 1.100 tỉ (chưa bao gồm số khoanh nợ và xóa nợ ngân sách nhà nước từ thuế GTGT). Các giải pháp hỗ trợ phải áp dụng là: xóa khoản thuế GTGT phát sinh từ 2001-2003, điều chỉnh lãi suất cho vay nội tệ là 3%/năm (gồm cả khoản nhận nợ bắt buộc phát sinh sau ngày 1-1-2003), chuyển vốn vay ngoại tệ thành nội tệ, khoanh nợ lãi suất tiền vay, phí bảo lãnh, cấp bù chênh lệch lãi suất và tỉ giá phát sinh đến 31-12-2002 nhưng chưa được xử lý; cấp bổ sung vốn lưu động.

Với nhóm 3, Bộ Tài chính cho biết nếu muốn cứu, ngay lúc này Nhà nước phải chi ngay khoảng 5.000 tỉ, trong đó 3.277 tỉ để trả nợ và 1.689 tỉ để bù lỗ kinh doanh. Các năm tiếp theo đến 2005 phải tiếp tục bổ sung nguồn chi hỗ trợ thêm thì các DN này mới có thể phát triển ngang với các DN nhóm 2.

Do vậy, Bộ Tài chính đề nghị áp dụng các biện pháp sáp nhập, giải thể, phá sản và xử lý tài chính theo qui định của pháp luật; với các khoản nợ ngân sách, nợ ngân hàng thực hiện phương án xử lý nợ theo cơ chế, qui định đối với DN nhà nước đã được Chính phủ phê duyệt; với tài sản máy móc thiết bị còn có khả năng tận dụng được thì bán cho các DN khác.

Các giải pháp của Bộ Tài chính đều trên cơ sở của lộ trình hội nhập, mục tiêu là hội nhập “thấp” vào năm 2006 và “cao” vào năm 2010. Nhưng ngay lúc này, ngoài hỗ trợ về mặt tài chính, Nhà nước cần phải áp dụng nhiều biện pháp khác, theo Bộ Tài chính đó là: không thực hiện dự án đầu tư thành lập mới nhà máy đường, hạn chế đầu tư mở rộng hoặc nâng công suất của các nhà máy hiện có.

Trong tờ trình, Bộ trưởng Nguyễn Sinh Hùng thừa nhận việc xử lý khó khăn cho các nhà máy đường là vấn đề lớn, khi thực hiện đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương và phải thực hiện khẩn trương, đúng đối tượng mới thật sự đưa ngành mía đường VN phát triển bền vững.

T.TU.
Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0
Bình luận (0)
thông tin tài khoản
Được quan tâm nhất Mới nhất Tặng sao cho thành viên